#043 | Căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường: Phải có vi phạm

12/26/2023

Tình tiết sự kiện:

Công ty Việt Nam (Nguyên đơn - Bên mua) xác lập hợp đồng mua bán với Công ty Hà Lan (Bị đơn – Bên bán). Sau đó, Bên mua yêu cầu Bên bán bồi thường thiệt hại do giao hàng không đúng chủng loại. Tuy nhiên, yêu cầu này không được Hội đồng Trọng tài chấp nhận.

Bài học kinh nghiệm:

Trong thực tế, chúng ta thường xuyên gặp trường hợp một bên trong hợp đồng cho rằng bên kia vi phạm hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Trong điều kiện nào, yêu cầu này được chấp nhận?

Trong vụ việc trên, Nguyên đơn và Bị đơn ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa số 1661 và hợp đồng số 1663. Ngày 31/05/2013, toàn bộ 30 công-ten-nơ hàng về đến cảng Hải Phòng. Sau khi bốc dỡ hàng để thực hiện kiểm dịch và mở tờ khai hải quan điện tử vào ngày 03/06/2013, Nguyên đơn cho rằng hàng bị giao sai chủng loại so với hợp đồng và yêu cầu Bị đơn bồi thường thiệt hại.

Sau khi xác định pháp luật điều chỉnh quan hệ giữa các Bên là pháp luật Việt Nam[1], Hội đồng Trọng tài cho rằng “thông qua các chứng cứ trong hồ sơ cũng như các trình bày của Nguyên đơn, Nguyên đơn đã thực hiện thanh toán cho hai lô hàng bằng L/C qua Ngân hàng N. Nguyên đơn đã không thực hiện quyền từ chối nhận hàng nếu lô hàng sai chủng loại, mà trên thực tế đã tổ chức tiếp nhận, bốc dỡ toàn bộ lô hàng về kho bãi của mình. Đồng thời, trong khi chưa đạt được một thỏa thuận có giá trị pháp lý đối với người có thẩm quyền của Bị đơn về phương thức giải quyết lô hàng có tranh chấp, Nguyên đơn đã đơn phương chỉ định tổ chức giám định lô hàng trong tình trạng hàng hóa đã bị bốc dỡ, không nguyên kiện. Do đó, không có cơ sở để xác định Bị đơn giao sai chủng loại các lô hàng là gỗ Bạch Dương theo hai hợp đồng số 1661/2013 và 1663/2013. Từ các căn cứ trên, Hội đồng Trọng tài xét thấy chưa có đủ căn cứ xác định hàng hóa do Bị đơn giao cho Nguyên đơn là sai chủng loại, không phù hợp với hợp đồng (…). Đối với yêu cầu bồi thường thiệt hại của Nguyên đơn: do Nguyên đơn không chứng minh được việc Bị đơn vi phạm các hợp đồng đã ký kết, đồng thời Nguyên đơn cũng không chứng minh được các thiệt hại xảy ra là tổn thất thực tế, trực tiếp mà Nguyên đơn phải chịu do Bị đơn gây ra và khoản lợi trực tiếp mà bên bị vi phạm đáng lẽ được hưởng nếu không có hành vi vi phạm. Căn cứ Điều 302 Luật Thương mại năm 2005, Hội đồng Trọng tài xét thấy không có căn cứ pháp lý để tuyên buộc Bị đơn phải bồi thường thiệt hại cho Nguyên đơn”.

Như vậy, yêu cầu bồi thường thiệt hại của Bên mua không được chấp nhận và lý do chính của việc không chấp nhận này là do chưa có cơ sở để khẳng định Bên bán đã vi phạm hợp đồng: Theo Hội đồng Trọng tài, “do Nguyên đơn không chứng minh được việc Bị đơn vi phạm các hợp đồng đã ký kết”. Hướng giải quyết của Hội đồng Trọng tài được lý giải như sau: Đối với tranh chấp thương mại, căn cứ làm phát sinh trách nhiệm bồi thường đã được quy định tại Điều 303 Luật Thương mại năm 2005 theo đó “Trừ các trường hợp miễn trách nhiệm quy định tại Điều 294 của Luật này, trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ các yếu tố sau đây: 1. Có hành vi vi phạm hợp đồng; 2. Có thiệt hại thực tế; 3. Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại”.

Với quy định trên, điều kiện đầu tiên để làm phát sinh trách nhiệm bồi thường là bên bị yêu cầu bồi thường thiệt hại “có hành vi vi phạm hợp đồng”, tức “là việc một bên không thực hiện, thực hiện không đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ theo thoả thuận giữa các bên hoặc theo quy định của Luật này” (khoản 12 Điều 3 Luật Thương mại năm 2005). Trong vụ việc trên, Hội đồng Trọng tài cho rằng “Nguyên đơn không chứng minh được việc Bị đơn vi phạm các hợp đồng đã ký kết”. Do đó, chưa đủ cơ sở để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của Bên bán phát sinh nên yêu cầu bồi thường thiệt hại không được chấp nhận.

Từ vụ việc trên, doanh nghiệp rút ra bài học rằng trách nhiệm bồi thường thiệt hại của họ không thể phát sinh nếu họ không có vi phạm hợp đồng. Đồng thời doanh nghiệp yêu cầu bồi thường thiệt hại cũng biết rằng yêu cầu của họ không thể được chấp nhận nếu chưa chứng minh được rằng đối tác của họ đã vi phạm nghĩa vụ hợp đồng.

 

[1] “Căn cứ Điều 13 của hợp đồng 1661 và hợp đồng 1663, các Bên thỏa thuận luật pháp áp dụng là luật của Việt Nam. Căn cứ khoản 1 Điều 22 Quy tắc tố tụng trọng tài của VIAC và khoản 1 Điều 14 Luật Trọng tài thương mại năm 2010, Hội đồng Trọng tài áp dụng pháp luật Việt Nam để giải quyết Vụ tranh chấp”.

*Tuyên bố bảo lưu: Bài viết được đăng tải với mục tiêu cung cấp thông tin có giá trị tham khảo đối với các Trọng tài viên, các bên tranh chấp, những người tham gia tố tụng trọng tài cũng như những người đang nghiên cứu và tìm hiểu về phương thức trọng tài thương mại và không có bất kỳ mối liên hệ hay có mục đích nhằm thể hiện ý kiến, quan điểm của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC). Mọi sự dẫn chiếu, trích dẫn từ bên thứ ba bất kỳ đến một phần hoặc toàn bộ nội dung tại bài viết này đều không có giá trị và không được VIAC thừa nhận. 

Tin liên quan

  • Trường Đại học Luật Tp.HCM
    VCCI
    VIBOnline
    Trường đại học ngoại thương
    Trường Đại Học Luật
    VCCI